Việt Nam và AEC 2015
Cuộc
hội nhập mang tên “Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)” vào năm 2015 đã cận kề mà tại
Việt Nam, dường như nó vẫn chưa thu hút được sự chú ý thích đáng của người dân,
doanh nghiệp và chính quyền các cấp.
Năm 2015 sẽ mở ra một loạt sự kiện quốc tế quan trọng đối với Việt Nam. Chúng
ta có thể nhẩm đếm những từ khóa quan trọng nhất liên quan đến quá trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam, với mức độ chắc chắn tạm thời được xếp từ cao xuống thấp
như sau: Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam -
EU (Vietnam - EU FTA), và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Với AEC, nếu việc thu hút đầu tư nước ngoài không vượt trội, Việt Nam có nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của khu vực. Trong ảnh: Gian hàng giới thiệu sản phẩm Thái Lan (phía sau) tại một hội chợ dệt may tổ chức ở TPHCM. Ảnh: THANH TAO
Nhìn
vào dòng thời sự và những cuộc thảo luận trên các phương tiện truyền thông, tôi
cảm thấy dường như mức độ đề cập của chúng ta lại đang theo thứ tự ngược lại.
Những gì chắc chắn, rõ ràng, sát sườn hơn cả thì lại được nhắc đến ít hơn, còn
những thứ chưa rõ ràng, ít nằm trong sự kiểm soát của chúng ta hơn, thì lại được
thảo luận nhiều hơn, và do đó, kết quả thảo luận thường cũng mơ hồ hơn.
Bốn mục tiêu trụ cột của AEC
Từ lâu ASEAN với 10 nước thành viên đã nhận thấy tầm quan trọng của việc thúc đẩy
tự do hóa thương mại nội khối và đẩy nhanh quá trình gắn kết các thành viên
trong một sân chơi chung, nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng của từng thành viên.
Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA, thành lập năm 1993) vẫn đang từng bước tiến
tới thực hiện những cam kết cuối cùng. Một bước tiếp theo, với nhiều tham vọng
và kỳ vọng hơn, là AEC, hoặc như một số nước muốn gọi chung chung hơn, là Cộng
đồng ASEAN (AC), chính thức được thành lập vào năm 2015.
Mục tiêu của AEC là tạo dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất cho
các quốc gia thành viên, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư, và lao động có tay nghề trong khối.
Bốn mục tiêu trụ cột của AEC được tuyên bố bao gồm: (1) thị trường và cơ sở sản
xuất thống nhất; (2) một khu vực kinh tế cạnh tranh; (3) một khu vực phát triển
đồng đều; và (4) hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Cơ hội trông đợi nhất mang tên... đầu tư
Xét về cơ hội, thì sự hội nhập ASEAN sâu rộng hơn nữa tất nhiên sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội về thị trường hơn, vì chi phí lưu chuyển các loại hàng hóa, cả ở dạng nguyên liệu, chi phí trung gian cho tới thành phẩm đều hạ xuống. AEC cũng sẽ giúp các công dân Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm hơn, đặc biệt với những người có tay nghề, chuyên môn cao.
Nhưng cơ hội được trông đợi nhất, từ tất cả các nước ASEAN chứ không riêng gì
Việt Nam, thực ra sẽ đến từ bên ngoài khối ASEAN, đó là sự đầu tư và hợp tác
đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Bởi vì việc kết nối và xây dựng một
ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như
một sân chơi chung, một công xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống nhất,
đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ.
Có thể hình dung việc hình thành AEC giống như một khu tập thể tự thương thuyết
để sắp xếp, dọn dẹp lại nội bộ giữa các căn hộ bên trong khu. Từ đó, một nhà
đầu tư thấy có thể dễ dàng tham gia hợp tác để cải tạo khu tập thể đó thành một
khu chung cư cao cấp hay một khu thương mại dịch vụ hiện đại, với sự đồng
thuận, nhất trí của các hộ dân bên trong.
Tuy nhiên, sự nhất trí biến khu tập thể thành một mặt bằng hiện đại, tiện ích
hơn, có thể không đem lại cho các hộ gia đình những cơ hội giống hệt nhau.
Những hộ gia đình nào có nền tảng tốt hơn, linh hoạt và nhạy bén hơn, sẽ là hộ
thu được lợi ích lớn nhất từ những cơ hội mới. Những hộ gia đình chậm chạp, kém
nhạy bén, có thể về mức tuyệt đối vẫn được cải thiện nhưng sẽ phát hiện thấy
mình “nghèo” đi một cách tương đối so với những hộ nhóm kia.
Nhưng có nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ?
Những gì là cơ hội cũng đồng thời có thể là thách thức đối với Việt Nam. Ví dụ,
nhờ việc giao lưu hàng hóa trở nên thuận tiện và rẻ hơn giữa các nước, các nhà
đầu tư có thể cân nhắc đầu tư phát triển sản xuất một cách tập trung tại những
địa điểm thuận lợi nhất về môi trường kinh doanh, tính nhất quán của chính sách,
kinh tế vĩ mô ổn định, dồi dào nguồn vốn con người và nguồn nguyên liệu, sau đó
vận chuyển sản phẩm đến những vùng khác nhau trong ASEAN. Như thế, chưa chắc
Việt Nam đã là một lựa chọn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nếu các khía cạnh
nêu trên của Việt Nam không bộc lộ được chất lượng vượt trội, thì sau năm 2015,
Việt Nam có nguy cơ trở thành địa bàn để tiêu thụ hàng hóa thay vì là nơi đầu
tư phát triển sản xuất.
Soi gương từ... năng suất lao động
Hãy thử nhìn vào năng suất lao động bình quân của Việt Nam so với các nước tiên
tiến hơn trong ASEAN(xem biểu đồ 1). Năng suất trung bình của
người lao động Việt Nam thấp dưới một nửa so với Philippines, nhỉnh hơn một
phần tư của Thái Lan, dưới một phần mười của Malaysia và chỉ chưa bằng 3% (!)
năng suất của Singapore. Như thế chúng ta có thể hình dung chất lượng của lao
động Việt Nam hiện nay thấp như thế nào. Thường thì năng suất thấp đi liền với
tiền lương thấp, nên nhiều người cho rằng đó là lợi thế của nước đi sau. Nhưng
thực tế không đơn thuần như vậy. Tiền lương chỉ hấp dẫn khi nó thấp hơn năng
suất thực (đồng nghĩa với việc người chủ khi trả lương sẽ thu được lợi thế).
Tuy nhiên, mức sống ở Việt Nam ngày càng đắt đỏ như hiện nay đã khiến tiền
lương tăng nhanh hơn năng suất, làm xói mòn lợi thế lao động giá rẻ trong khu
vực.
Thêm vào đó, nguy cơ của nền kinh tế chỉ dựa vào lao động giá rẻ và năng suất
thấp là rất cao. Bởi vì lao động chất lượng thấp đồng nghĩa với tính kém đa
dạng của các loại kỹ năng, khả năng sáng tạo cũng như hiệu quả tổ chức. Với
những đặc điểm này, Việt Nam sẽ không phải là một điểm đến hấp dẫn cho những dự
án đầu tư mang tính tiên phong về công nghệ hoặc quy mô. Và điều này sẽ là
nguyên nhân tách Việt Nam (và các nước đi sau) ra ngày càng xa các nước đã có
một nền tảng tốt hơn trong ASEAN (như Malaysia, Thái Lan hoặc Indonesia).
Năng suất lao động thấp chỉ là một ví dụ cho thấy nguy cơ có thể lấn át cơ hội
như thế nào. Trong khi đó, chúng ta còn rất nhiều điểm yếu trong môi trường
kinh doanh, hệ thống pháp lý, chất lượng chính quyền, cấu trúc kinh tế, giáo
dục dạy nghề...
Xem người Thái đón đầu cơ hội
Ngoài những đặc điểm cố hữu của mỗi nền kinh tế, thì cũng cần phải kể tới vai
trò của chính phủ trung ương và địa phương trong quá trình chuẩn bị cho sự hội
nhập AEC.
Chính phủ Thái Lan có thể coi là một trường hợp điển hình của nỗ lực nắm bắt
thời cơ của AEC. Khi trao đổi với một số quan chức Thái Lan, tôi được biết
chính phủ nước này rất nghiêm túc và tôn trọng tiến trình hội nhập AEC. Các cán
bộ ở các cơ quan công quyền được yêu cầu phải học hai thứ tiếng, là tiếng Anh
và một thứ tiếng trong ASEAN. Nhiều cán bộ chọn tiếng Indonesia (cũng là tiếng
Malaysia), nhưng cũng nhiều cán bộ chọn tiếng Việt hoặc tiếng Campuchia. Có thể
việc học ngoại ngữ trong vài tháng không làm các cán bộ nhà nước sử dụng thành
thạo ngôn ngữ đó ngay được, nhưng điều này sẽ giúp họ phần nào hiểu hơn về văn
hóa, tập quán của các nước ấy, dù ở mức sơ đẳng.
Thêm vào đó, Thái Lan cũng thúc đẩy các phong trào tìm hiểu về các nước thành
viên ASEAN trong cộng đồng dân cư và nhất là học sinh, sinh viên. Các em học
sinh ở các vùng đều được dạy thêm về các nước thành viên ASEAN. Nhà trường treo
cờ ASEAN và học sinh tiểu học được học nhận biết các lá cờ của các nước ASEAN.
Tôi ngờ rằng rất nhiều công chức, viên chức, doanh nhân của chúng ta không nhận
biết hết được 10 lá cờ của các nước ASEAN chứ không riêng gì sinh viên, học
sinh.
Những nỗ lực vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân và
doanh nghiệp về AEC ở Thái Lan có vẻ đã mang lại nhiều dấu hiệu tích cực. Các
doanh nghiệp trong nước chuẩn bị chu đáo hơn cho thời điểm hội nhập. Đồng thời,
những doanh nghiệp lớn nhất đã chủ động tiến sang các nước thành viên khác để
đón thời cơ.
Ở Việt Nam, chúng ta đã và đang thấy dần sự hiện diện của các doanh nghiệp Thái
Lan trong nhiều lĩnh vực, nhưng đặc biệt là những mảng Thái Lan có lợi thế, như
nông sản, hàng công nghiệp nhẹ và hệ thống dịch vụ bán lẻ.
Biểu đồ 2cho thấy cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước
thành viên ASEAN. Đường nằm trên đồ thị cho thấy Việt Nam có xuất siêu, nằm
dưới phản ánh sự nhập siêu. Có thể thấy, Việt Nam có nhập siêu lớn từ Singapore
(thị trường trung chuyển các yếu tố đầu vào cho sản xuất) và Thái Lan.
Rõ ràng, Thái Lan đã nhìn thấy cơ hội xuất khẩu sang Việt Nam sẽ tiếp tục mở
rộng. Chưa kể, Việt Nam có vị trí như một điểm trung gian phân phối nông sản
sang thị trường Trung Quốc. Chính vì lý do này, gần đây một loạt doanh nghiệp
lớn của Thái Lan đã thâm nhập thị trường Việt Nam bằng cách thực hiện nhiều
thương vụ sáp nhập lớn trong ngành phân phối, cả bán sỉ lẫn bán lẻ.
Em bé Campuchia
cũng chuẩn bị cho AEC |
76% doanh nghiệp
Việt Nam không biết về AEC |
TS. Nguyễn Đức Thành
Theo thời báo kinh tế Sài Gòn online